Góc nhìn chuyên gia: Mảnh ghép còn thiếu trong nỗ lực cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng
- Dng van-Hanh
- Jun 6
- 17 min read
Updated: Jul 5
ĐỂ NÓI LÀ LÀM 2025 | Góc nhìn chuyên gia
Tác giả: Nguyễn Đỗ Thuyên, Điều phối đào tạo Dự án IEEP, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO)
1. Hai đòn bẩy ESG quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu
Giảm phát thải khí nhà kính (KNK) ở Việt Nam hiện nay không chỉ dừng ở hành động “được khuyến khích” mà đã trở thành yêu cầu pháp lý, với chế tài, lộ trình, và trách nhiệm được quy định ngày một rõ hơn trong các luật và văn bản dưới luật. Đối với các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu, việc giảm phát thải KNK là một yếu tố then chốt trong trụ cột “Môi trường” của tiêu chuẩn ESG (Environmental – Social – Governance, tức là Môi trường – Xã hội – Quản trị). Thực hiện tốt yêu cầu này không chỉ giúp DN tuân thủ quy định của thị trường mà còn mở ra cơ hội tiếp cận với thị trường các nước phát triển và ký được các hợp đồng xuất khẩu.
Bên cạnh những nhóm giải pháp cắt giảm KNK trong [1-Chuỗi cung ứng] (tối ưu hóa tuyến đường vận tải, thiết kế sản phẩm dễ tái chế…) và [2-Quy trình sản xuất] (tận dụng phụ phẩm làm nguyên liệu đầu vào, tuần hoàn nước/nhiệt trong sản xuất…) thì nhóm [3-Năng lượng] đang ngày càng thu hút sự quan tâm từ các DN công nghiệp. Trong đó, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNL TK&HQ) - vốn đã có nghị trình riêng từ Luật SDNL TK&HQ ban hành năm 2010 - nay lại càng trở nên quan trọng với DN công nghiệp.
Dù khác nhau về khái niệm, cách triển khai và lợi ích trực tiếp, giảm phát thải KNK và SDNL TK&HQ vẫn có sự giao thoa về mục tiêu, tác động hình ảnh/xã hội và lợi ích dài hạn. Có thể nói, đây chính là hai đòn bẩy ESG quan trọng đối với DN xuất khẩu. Khi nhắc đến nỗ lực giảm phát thải KNK của DN công nghiệp, rất khó để tách rời khỏi các hành động SDNL TK&HQ.
2. “Để Nói là Làm”: Doanh nghiệp làm gì để sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hơn?
Dù hiểu được lợi ích của việc SDNL TK&HQ, không phải tất cả các DN công nghiệp đều có chung cách tiếp cận khi bắt đầu quan tâm đến vấn đề năng lượng. Đặc thù ngành, đặc điểm vận hành, năng lực đội ngũ, cấu trúc tổ chức…của mỗi DN là khác nhau, dẫn đến phương thức triển khai SDNL TK&HQ khác nhau. Kinh nghiệm làm việc với nhiều DN công nghiệp chỉ ra một số cách tiếp cận phổ biến:
(1) Thuê đơn vị tư vấn thực hiện kiểm toán năng lượng (KTNL) hoặc các dịch vụ tư vấn khác
(2) Tự rà soát nội bộ và lên phương án cải thiện
(3) Thực hiện theo định hướng chiến lược của tập đoàn
(4) Tham gia các chương trình hợp tác
Đây cũng là 4 cách tiếp cận phổ biến mà các DN công nghiệp chia sẻ trong chuỗi bài “Để Nói là Làm”. Nhiều DN tiếp nhận động lực cải thiện hiệu quả sử dụng NL và giảm phát thải KNK từ cam kết của tập đoàn mẹ, hoặc tiếp nhận giải pháp kỹ thuật từ sự tư vấn của từ tập đoàn mẹ. Một số DN nhắc đến việc tham gia các khóa đào tạo của GIZ hoặc đã tham vấn ý kiến các chuyên gia của UNIDO. Thuê tư vấn và tự rà soát (hoặc kết hợp cả hai) có vẻ là cách tiếp cận phổ biến nhất. Hai doanh nghiệp đã chủ động theo dõi và ghi lại dữ liệu tiêu thụ NL hàng ngày, qua đó kịp thời xử lý khi phát hiện có lãng phí hoặc tiêu thụ cao bất thường, một doanh nghiệp tự tổ chức các đội chuyên tìm kiếm và khắc phục các rò rỉ khí nén. Với các giải pháp đòi hỏi chuyên môn sâu, các DN đã thuê tư vấn đánh giá và cung cấp giải pháp, đồng thời có đội ngũ vận hành bám sát để theo dõi.
Có thể nhận ra cam kết và quyết tâm triển khai một cách thực chất của các DN này thông qua những nỗ lực đặt ra mục tiêu (giảm phát thải hoặc tiết kiệm NL), lập ra kế hoạch hành động, bám sát việc triển khai, học hỏi từ các thất bại và sau đó tiếp tục cải thiện. Câu hỏi tiếp theo là: Họ có thể làm tốt hơn không? Và bằng cách nào?
3. Những mảnh ghép còn thiếu
3.1 “Chúng ta đang tiêu tốn năng lượng ở đâu nhiều nhất?” - Xác định các Hộ sử dụng năng lượng đáng kể (SEU)
Xác định các Hộ sử dụng năng lượng đáng kể (SEU – Significant Energy User) SEU là bước quan trọng cần thực hiện trước khi xây dựng một kế hoạch hành động SDNL TK&HQ, nó giúp DN xác định được thứ tự ưu tiên cần thiết để phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Hình 1 là một ví dụ giả định về các SEU trong DN may mặc và tỷ trọng tiêu thụ NL của mỗi hệ thống (so với tổng tiêu thụ NL toàn nhà máy). Biểu đồ bên dưới giúp DN nhận dạng được những SEU nào họ nên tập trung vào khi tìm kiếm các giải pháp SDNL TK&HQ. Lí do rất rõ ràng: Ngay cả khi chỉ tiết kiệm được 5% cho SEU “hệ thống cắt” (tương đương 5% x 30% = 1,5% tổng tiêu thụ NL), lợi ích thu được cũng vẫn lớn hơn so với việc tiết kiệm được 20% cho SEU “hệ thống chiếu sáng” (tương đương 20% x 5% = 1% tổng tiêu thụ NL).

Dĩ nhiên, để xác định đâu là các SEU quan trọng, bên cạnh tỷ trọng tiêu thụ NL, còn phải đánh giá cả tiềm năng tiết kiệm NL ở khu vực/hệ thống/quy trình đó nữa. Bảng dưới đây giới thiệu một phương pháp xác định SEU dựa trên hai tiêu chí này.

Ngoài ra, DN cũng có thể phân tích theo nguồn NL (điện, gas, than, dầu...), hoặc theo nguồn gốc (mua từ lưới điện, tự phát điện, mua hơi từ bên ngoài…). Cách làm của DN xác định nguồn tiêu thụ NL chính là điện - chiếm 99,67%, và DN thống kê tỷ trọng phát thải (lò hơi – 53%, điện - 44%, môi chất lạnh và xăng - 3%) đều hướng đến việc tìm kiếm những khu vực xứng đáng đầu tư giải pháp SDNL TK&HQ.
Những thao tác này thể hiện cách tiếp cận theo nguyên lý Pareto (80% kết quả thường đến từ 20% nguyên nhân). Và khi xác định được 20% SEU sử dụng nhiều NL nhất (thường tiêu thụ đến 80% tổng NL), DN có thể dồn nguồn lực để cải tiến ở những khu vực/hệ thống/quy trình có hiệu quả tiết kiệm cao nhất, tránh dàn trải nguồn lực cho những khu vực ít hiệu quả hơn. Nói tóm lại, trước khi tìm kiếm các giải pháp, phải trả lời được câu hỏi “Chúng ta đang tiêu tốn năng lượng ở đâu nhiều nhất?”
3.2 “Làm thế nào để biết chúng ta có đang sử dụng NL một cách hiệu quả hay không?” - Thu thập và phân tích dữ liệu năng lượng
Câu hỏi quan trọng thứ hai mà DN phải đối mặt là “Chúng ta có đang sử dụng NL một cách hiệu quả hay không?” Đây là câu hỏi không dễ trả lời, bởi nó làm nảy sinh câu hỏi tiếp theo: Đo lường hiệu quả bằng chỉ số nào?
Nếu chỉ đơn thuần sử dụng chỉ số “mức tiêu thụ NL”, việc so sánh sẽ không chuẩn xác. Chẳng hạn, mặc dù năm nay DN tiêu thụ bằng 110% lượng tiêu thụ NL của năm ngoái, nhưng đồng thời sản lượng của năm nay lại cao đến 150% sản lượng của năm ngoái. Như vậy, không thể kết luận rằng hiệu quả của năm ngoái tốt hơn năm nay. Rõ ràng, DN cần cân nhắc không chỉ mức tiêu thụ NL, mà còn nhiều yếu tố khác có tác động đến tiêu thụ NL như sản lượng, thời tiết, chủng loại sản phẩm… khi so sánh với dữ liệu quá khứ.
Một số DN trong “Để Nói là Làm” đã liệt kê các giải pháp SDNL TK&HQ. Một DN tiết kiệm được 584.979 kWh mỗi năm nhờ dự án bảo ôn máy ép đế. DN khác giảm được 1200 kWh mỗi ngày nhờ giải pháp tắt hệ thống lạnh 30 phút trước khi xuống ca. Dù vậy, những thông tin này không đủ để giúp khẳng định DN đã sử dụng NL hiệu quả hơn so với quá khứ (vì bên cạnh những giải pháp tiết kiệm đó, có thể có những SEU khác tiêu thụ NL ở mức lãng phí hơn trong quá khứ, dẫn đến kết quả tổng thể không tốt hơn quá khứ).
Tiêu chuẩn ISO 50001 đề xuất một tiếp cận toàn diện hơn: Xây dựng “Chỉ số kết quả thực hiện năng lượng” (Energy Performance Indicator – EnPI) và “Đường cơ sở năng lượng” (Energy Baseline – EnB), lấy đó làm mốc quy chiếu và là cơ sở cho việc so sánh hiệu quả sử dụng NL qua các năm. Trong đó, kỹ thuật hồi quy đơn/đa biến giúp đảm bảo những yếu tố ảnh hưởng đến NL tiêu thụ (như sản lượng, nhiệt độ, số giờ làm việc…) đều được phản ánh trong phương trình đường EnB, nhờ vậy đảm bảo tính khách quan trong so sánh. Các giải pháp tiết kiệm NL giúp giảm tiêu thụ NL ở một giai đoạn nào đó trong năm cũng sẽ được ghi nhận. Như vậy, DN có thể so sánh EnPI/EnB của năm hiện tại (cho tất cả các khu vực/hệ thống/quy trình sử dụng NL) với EnPI/EnB các năm trước để đánh giá liệu việc sử dụng NL có hiệu quả hơn trong quá khứ hay không.
Hình 2 là kết quả phân tích thực tế của một DN khi họ sử dụng kỹ thuật hồi quy đơn biến với biến độc lập là “Số giờ làm việc” và biến phụ thuộc là “Điện năng tiêu thụ” (cũng chính là EnPI) để xây dựng đường EnB cho năm 2022 và 2023. Đường EnB 2023 nằm dưới đường EnB 2022 cho thấy: với cùng một số giờ làm việc, điện năng tiêu thụ 2023 thấp hơn 2022, như vậy có thể kết luận: việc sử dụng điện năm 2023 của DN là hiệu quả hơn 2022.

Công cụ đường EnB còn có tác dụng trong việc dự báo NL tiêu thụ trong tương lai. Chẳng hạn, nếu phương trình hồi quy đa biến của EnB năm 2023 có dạng [Năng lượng = 0,228 x Số giờ làm việc + 0,555 x Sản lượng quy đổi + 39247], từ kế hoạch kinh doanh 2024 hoặc từ các dự báo về đơn hàng, DN hoàn toàn có thể ước tính số giờ làm việc và sản lượng, từ đó tính toán được lượng NL cần thiết cho năm 2024. Khi so sánh tiêu thụ NL dự báo với NL tiêu thụ trên thực tế của 2024, DN có thể biết được liệu trong năm 2024, DN đã sử dụng NL tiết kiệm (nếu thực tế thấp hơn dự báo) hay lãng phí (nếu thực tế cao hơn dự báo).
Ngoài ra, một đường EnB được xây dựng hợp lý cũng sẽ giúp DN có thêm cơ sở để xác định các mục tiêu về SDNL TK&HQ. Một DN trong bài đã áp dụng cách tiếp cận tương tự khi xây dựng đường baseline cho phát khải KNK, từ đó xây dựng mục tiêu cắt giảm.
Dĩ nhiên, các phân tích này chỉ có thể được hoàn thiện khi có đầy đủ dữ liệu về tiêu thụ NL. Dữ liệu theo tháng và ở phạm vi toàn DN là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, nếu có thể, dữ liệu theo tuần/theo ngày ở phạm vi từng SEU sẽ rất hữu ích. DN có thể xây dựng đường EnB và EnPI cho từng SEU. Số điểm dữ liệu nhiều hơn cũng giúp tăng độ tin cậy của mô hình hồi quy.
Cách làm của một số DN trong bài là rất đáng học hỏi: Họ đã chủ động theo dõi và ghi lại dữ liệu tiêu thụ NL hàng ngày. Đây là tiền đề cho các bước phân tích tiếp theo khi đánh giá hiệu quả sử dụng NL. Một DN cũng đã trang bị các tủ tín hiệu nhỏ tại mỗi tủ điện để lấy dữ liệu thực tế và chuyển tải về hệ thống lưu trữ. Mặc dù xuất phát điểm là để giám sát và cảnh báo quá tải/quên tắt điện, nhưng hệ thống này cũng giúp DN có được dữ liệu tiêu thụ điện theo từng khu vực, từ đó DN có căn cứ rõ ràng hơn khi so sánh, đối chiếu mức độ tiêu thụ NL giữa hiện tại và quá khứ cũng như giữa các khu vực với nhau. Ngoài ra, việc theo dõi dữ liệu NL cũng giúp DN nắm bắt được những thời điểm tiêu thụ NL cao bất thường, qua đó kịp thời xử lý nếu có sự cố về mặt vận hành, hạn chế lãng phí NL.
SEU, EnPI, EnB…đã cho thấy chúng là những công cụ hữu ích, và là một vài ví dụ để minh họa cho một cách tiếp cận khác về SDNL TK&HQ: Hệ thống quản lý năng lượng theo ISO 50001.
4. Hệ thống quản lý năng lượng theo ISO 50001: Cách tiếp cận giúp bền vững hóa những nỗ lực SDNL TK&HQ
4 cách tiếp cận phổ biến khi DN bắt đầu quan tâm đến vấn đề SDNL TK&HQ đã được giới thiệu ở mục 2. Những phân tích trong mục 3 đã chỉ ra rằng, vẫn còn dư địa để DN có thể làm tốt hơn bằng cách nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn, chẳng hạn:
Không chỉ chú trọng vào một số cơ hội tiết kiệm NL ở một vài thời điểm, mà cần thiết lập cơ chế quản lý NL liên tục, bền vững (thông qua việc thu thập đầy đủ dữ liệu NL và xây dựng EnB, EnPI cho các năm). Điều này sẽ giúp DN (1) giám sát được hiệu quả sử dụng NL một cách liên tục, và (2) phát hiện ra những sai sót trong vận hành dẫn đến lãng phí NL một cách sớm nhất.
Không chỉ nhìn vào một vài khu vực/quy trình/hệ thống có cơ hội tiết kiệm NL, mà cần xem xét toàn bộ các SEU, để từ đó phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất vào những SEU lớn và có tiềm năng nhất.
Đây chỉ là 2 trong số nhiều ví dụ để minh họa cho cách tiếp cận thứ 5: Xây dựng một “Hệ thống quản lý năng lượng” (HTQLNL) mà ở đó, vấn đề NL được tích hợp vào việc quản lý vận hành hàng ngày với sự tham gia liên tục và chủ động của ban lãnh đạo DN. HTQLNL cho phép đưa vấn đề SDNL TK&HQ vào văn hóa DN và công tác quản lý hàng ngày thông qua các chính sách NL được quy phạm hóa và thông qua đội ngũ QLNL được phân công chính thức, từ đó dần dần thay đổi hành vi của mỗi cá nhân và cả tổ chức theo hướng SDNL TK&HQ. Đây là điều mà những cách tiếp cận khác như kiểm toán năng lượng (KTNL) sẽ khó có thể giúp DN đạt được.
Bảng 2 đưa ra một so sánh đơn giản giữa HTQLNL theo ISO 50001 với hoạt động KTNL, qua đó giúp ta hình dung rõ hơn sự khác biệt giữa HTQLNL với những cách tiếp cận khác.
Tiêu chí | Kiểm toán năng lượng | ISO 50001 – Hệ thống quản lý năng lượng |
Mục tiêu chính | Xác định tiềm năng tiết kiệm NL tại một thời điểm | Thiết lập cơ chế QLNL liên tục, bền vững |
Tần suất | Thường 3–5 năm/lần hoặc khi có yêu cầu | Duy trì liên tục, tích hợp vào hoạt động vận hành hàng ngày |
Phạm vi áp dụng | Tập trung vào thiết bị, hệ thống sử dụng NL chính | Bao trùm toàn bộ tổ chức: con người, quy trình, thiết bị, văn hóa |
Đầu ra chính | Báo cáo đề xuất các giải pháp cải tiến | Hệ thống EnPI, EnB, SEU, chính sách NL được phê duyệt, kế hoạch hành động, kiểm soát vận hành, đánh giá nội bộ… |
Người thực hiện | Thường do chuyên gia tư vấn bên ngoài | Do chính DN triển khai (sau khi được đào tạo) |
Tuân thủ quy định | Đáp ứng Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả | Đáp ứng quy định + đạt chuẩn quốc tế (nếu đạt chứng nhận) |
Khả năng duy trì hiệu quả | Thấp hơn – phụ thuộc vào việc có triển khai khuyến nghị sau kiểm toán hay không | Rất cao – vì lồng ghép vào hệ thống quản lý hàng ngày & mục tiêu của DN |
Liên kết với ESG & mục tiêu giảm phát thải KNK | Thường là gián tiếp, tùy vào cách mà DN sử dụng kết quả | Liên kết trực tiếp, vì hỗ trợ tích hợp vào chiến lược ESG và giảm phát thải KNK, dễ chứng minh với đối tác quốc tế |
Chi phí triển khai | Thấp hơn, theo gói kiểm toán một lần hoặc định kỳ | Ban đầu có thể cao hơn, nhưng tiết kiệm hơn về lâu dài |
Bảng 2: So sánh giữa HTQLNL theo ISO 50001 với hoạt động KTNL
Một cách dễ hình dung hơn, KTNL giống như việc khám sức khỏe định kỳ – giúp DN biết “đang yếu chỗ nào” để chữa trị. Những cách tiếp cận khác như DN tự rà soát, nhờ sự hỗ trợ từ tập đoàn mẹ, tham gia các chương trình hợp tác… đều chịu hạn chế của yếu tố thời điểm và yếu tố “phi hệ thống”, nó chỉ phát huy hiệu quả tại ngay thời điểm triển khai, và chủ yếu tập trung vào các thiết bị/hệ thống sử dụng NL. Cũng không có gì đảm bảo rằng các nỗ lực SDNL TK&HQ sẽ được tiếp tục với cùng một mức độ đầu tư công sức, thời gian…như thế trong tương lai. Ngược lại, HTQLNL theo ISO 50001 giống như việc xây dựng lối sống lành mạnh – giúp DN có được “sức khỏe lâu dài”, kiểm soát NL tốt hơn mỗi ngày nhờ tác động toàn diện, có tính hệ thống và kéo dài liên tục đến (1) không chỉ thiết bị/hệ thống, mà còn đến (2) con người, quy trình, văn hóa DN…
Với những cách tiếp cận khác, nỗ lực SDNL TK&HQ có rủi ro phải tạm dừng khi xảy ra sự cố về nhân sự (một cán bộ vận hành giàu kinh nghiệm nghỉ việc, khiến việc DN tự rà soát bỗng gặp khó khăn), sự cố về cam kết lãnh đạo (một Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật vừa được chuyển sang công ty khác trong tập đoàn, dẫn đến việc triển khai các giải pháp trong báo cáo KTNL bị đình trệ)… Còn với HTQLNL theo ISO 50001, định hướng SDNL TK&HQ trở nên bền vững hơn, nhờ được tích hợp vào trong hoạt động quản lý vận hành hàng ngày thông qua các công cụ được quy phạm hóa như:
Chính sách NL được phê duyệt (trong đó liệt kê các SEU, cách thức thu thập dữ liệu, phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban QLNL, chỉ ra các mục tiêu tiết kiệm NL và kế hoạch hành động…). Các hoạt động SDNL TK&HQ sẽ không bị dừng lại chỉ vì sự xáo trộn trong thành phần ban lãnh đạo DN, các chính sách vẫn sẽ tiếp tục được triển khai.
Sổ tay vận hành cho mỗi SEU được ban hành chính thức và cập nhật liên tục (trong đó nêu rõ các thông số vận hành cần kiểm soát tại các SEU). Điều này sẽ giúp tránh được rủi ro vận hành: Dù nhân viên vận hành có nghỉ việc, người thay thế vẫn sẽ nắm bắt được đâu là thông số tối ưu và cách thức vận hành tối ưu.
Xác định ai là những người có thể tác động đến hiệu quả sử dụng NL của các SEU và lên kế hoạch đào tạo về SDNL TK&HQ.
Những quy định thiết kế và mua sắm tại DN được tích hợp với EnPI, để đảm bảo mọi hoạt động thiết kế mới hay mua sắm thiết bị/quy trình/nhiên liệu…đều phục vụ cho việc SDNL TK&HQ.
Việc xem xét của lãnh đạo và đánh giá nội bộ được thực hiện định kỳ, nhằm rà soát những điểm chưa đạt, đánh giá các EnPI và đưa ra giải pháp cải tiến.
…
Soi chiếu vào những hoạt động cải tiến của các DN trong “Để Nói là Làm”, có thể nhận ra, áp dụng HTQLNL có thể giúp nhân rộng những nỗ lực cải tiến này một cách có hệ thống hơn. Chẳng hạn, một DN sau khi khảo sát đã quyết định tắt hệ thống lạnh 30 phút trước khi xuống ca (vào lúc 16h hàng ngày) để tiết kiệm NL mà vẫn đảm bảo độ mát trong khu làm việc. Như vậy, “tắt hệ thống lạnh lúc 16h” là một thông số vận hành quan trọng cần được văn bản hóa vào trong sổ tay vận hành để đảm bảo rằng nó sẽ được thực thi liên tục (tránh phụ thuộc vào cá nhân hoặc “truyền miệng”). DN có thể nhân rộng cách làm này đối với thông số vận hành ở các SEU khác để xem nó đã được cài đặt ở trạng thái tối ưu hay chưa. Thực tế cho thấy, không phải tất cả các DN đều có sự chú trọng đúng mức đến công tác “Kiểm soát vận hành”.
Hộp 2: Dưới đây là một số đoạn đối thoại giữa đơn vị tư vấn với các nhân viên vận hành tại một số DN công nghiệp mà tác giả đã có cơ hội được quan sát trong thực tế. [Ở khu vực lò hơi]
[Ở khu vực máy nén khí]
[Ở khu vực máy nhuộm]
|
Trong các trường hợp trên, đã không có sự đầu tư nghiên cứu để xác định thông số vận hành tối ưu. Rất có thể đâu đó trong mỗi DN, vẫn đang có sự lãng phí NL – chẳng hạn một máy nén khí đang được cài đặt áp suất làm việc ở mức cao hơn nhu cầu thực sự. Cải thiện điều này có thể làm giảm hóa đơn NL nhiều hơn mức chúng ta có thể hình dung.
Dĩ nhiên, lựa chọn một cách tiếp cận phù hợp về SDNL TK&HQ sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà chỉ DN là người nắm rõ nhất. Hy vọng rằng, một số thông tin và cái nhìn mới về Hệ thống quản lý năng lượng theo ISO 50001 trong bài viết này sẽ giúp các DN trong “Để Nói là Làm” có thêm cho mình một lựa chọn hữu ích để có thể kéo dài và làm bền vững hơn những nỗ lực phát triển bền vững trong tổ chức.
Bài luận này thuộc tuyển tập Để Nói là Làm (To Walk the Talk) – nơi các nhà máy dệt may, da giày tại Việt Nam kể những câu chuyện “nhà máy thực, việc thực” về nỗ lực hàng ngày nhằm giảm thiểu tác động môi trường của hoạt động sản xuất. Người kể chuyện không phải chuyên gia, mà là những thành viên của Cộng đồng Học tập To the Finish Line (TFL) mong muốn chia sẻ kinh nghiệm, bài học, niềm vui cũng như trăn trở trong trong quá trình giải quyết các vấn đề phát triển bền vững tại nhà máy mình. Mỗi câu chuyện là một hành trình – từ nhận ra vấn đề, phân tích nguyên nhân đến hành động và kết quả. Rất có thể bạn sẽ thấy chính mình trong đó.
Qua tuyển tập này, hy vọng bạn đọc sẽ tìm thấy giá trị tham khảo để ứng dụng trong công việc, cũng như nguồn cảm hứng để cùng chung tay hành động vì rừng vàng biển bạc quê hương.
Chúng tôi cũng mong những câu chuyện này sẽ giúp khơi gợi các cuộc thảo luận với đồng nghiệp, ban giám đốc, và với nhãn hàng về những vấn đề nhức nhối còn bỏ ngỏ. Thay đổi bắt đầu từ việc lên tiếng.
Phát triển bền vững chưa bao giờ dễ dàng, nhất là trong bối cảnh năm 2025 đầy thách thức, nhưng sự tích cực và tinh thần cộng đồng sẽ mang lại sức mạnh cho mỗi người. Hãy để những câu chuyện này chạm đến bạn và cùng nhau Nói là Làm.
Comments