top of page

Thực hiện theo chiến lược dài hạn và đánh giá kết quả

  • Writer: Dng van-Hanh
    Dng van-Hanh
  • Jun 5
  • 8 min read

Updated: Jul 6

ĐỂ NÓI LÀ LÀM 2025 | Câu chuyện #9

Tác giả: Ẩn danh, Nhà máy may



Công ty A tại thành phố Hồ Chí Minh là đối tác gia công hàng may mặc uy tín cho nhiều thương hiệu quốc tế danh tiếng. Được thành lập từ năm 2015, tới nay Công ty A đã mở rộng quy mô nhà xưởng lên đến hơn 76 hecta và thu hút lực lượng lao động hùng hậu với 17.000 nhân sự, góp phần để Tập đoàn A hướng tới mục tiêu trở thành tập đoàn may mặc quốc tế hàng đầu bằng cách tự động hóa, số hóa quy trình sản xuất và chú trọng phát triển bền vững.


Mặc dù tăng trưởng sản xuất mang lại những thành tựu đáng kể, Tập đoàn và Công ty A cũng đối mặt với thách thức về gia tăng tiêu thụ năng lượng và hóa chất, dẫn đến sự gia tăng tương ứng lượng phát thải khí nhà kính (KNK). Nhận thức sâu sắc tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu toàn cầu, Tập đoàn đã cam kết chung tay giảm thiểu KNK, hướng tới mục tiêu trung hòa carbon. Để thực hiện cam kết này và đáp ứng mong đợi của các bên liên quan, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam, Tập đoàn đã phối hợp với Công ty, Bộ phận Phát triển Bền vững và các bộ phận liên quan tiến hành đánh giá hiện trạng phát thải KNK tại Công ty và đề ra các biện pháp giảm thiểu giai đoạn 2020 - 2024.


Phân tích cho thấy nguồn phát thải chủ yếu đến từ việc sử dụng lò hơi đốt than (53%), tiêu thụ điện của máy móc thiết bị (44%), sử dụng môi chất lạnh có hệ số phát thải cao, hóa chất gốc dầu và nhiên liệu như DO, xăng (3%). Trên cơ sở đó, Tập đoàn đã xây dựng và triển khai các giải pháp toàn diện, tập trung vào việc giảm thiểu và thay thế các loại nhiên liệu và hóa chất có tác động tiêu cực đến môi trường:

  1. Chuyển toàn bộ việc sử dụng lò hơi tập trung sang lò hơi điện mini: Trước đây Công ty sử dụng 2 lò hơi đốt than antraxit công suất 10.000 tấn hơi/giờ để cung cấp hơi ủi quần áo, hơi hấp vải và hơi nấu ăn. Từ tháng 06/2020, theo chiến lược phát triển của Tập đoàn và yêu cầu từ khách hàng loại bỏ lò hơi đốt than vào năm 2025, Công ty đã bắt đầu hành động thay thế dần từ việc sử dụng lò hơi đốt than sang lò hơi điện mini. Đến 03/2021, 2 lò hơi đốt than đã được thay thế hoàn toàn bởi 800 lò hơi mini sử dụng cho ủi quần áo được lắp đặt tại từng chuyền may và 25 lò hơi mini cung cấp hơi hấp vải và nấu ăn. Công ty phân tích số liệu và so sánh phát thải từ lò hơi điện mini năm 2024 (năm sử dụng ổn định lò hơi mini) với phát thải từ lò hơi tập trung đốt than năm 2020, thì thấy việc chuyển đổi này giúp giảm phát thải khí nhà kính khoảng 3.215 tCO2, tương ứng với giảm 30% lượng khí phát thải trong nhà máy.

    Việc chuyển đổi toàn bộ lò hơi đốt than sang lò hơi điện mini đặt ra những thách thức đáng kể, trong đó chi phí đầu tư ban đầu cao là rào cản lớn nhất. Bên cạnh đó, nhà máy sẽ bị động trong việc sửa chữa thiết bị, phụ thuộc vào nhà cung ứng và yêu cầu hệ thống điện ổn định với công suất đủ tải. Để khắc phục, đầu tiên công ty thử nghiệm ở một số vị trí làm việc, sau đó mở rộng ra một phân xưởng trước khi triển khai trên toàn bộ công ty. Để đảm bảo tính liên tục của sản xuất trong các tình huống khẩn cấp, nhà máy vẫn duy trì đường ống cung cấp hơi, đồng thời cử đội ngũ bảo trì tham gia các khóa đào tạo của nhà cung ứng để nâng cao khả năng tự chủ trong sửa chữa. nhà máy cũng đã thảo luận với bộ phận điện của khu công nghiệp về việc thay thế đường điện trong phân xưởng để đáp ứng yêu cầu công suất của lò hơi điện;

  2. Tắt hệ thống lạnh (Chiller) trước khi xuống ca: Công ty bắt đầu thử nghiệm và áp dụng từ năm 2021. Vào lúc 16h00 hàng ngày trước khi xuống ca 30 phút, đội bảo trì được phân công nhiệm vụ sẽ tắt máy lạnh khu vực xưởng để tiết kiệm điện. Trong thời gian này, các trợ lý xưởng sẽ đi tuần để kiểm tra xem nhiệt độ có đủ mát để công nhân làm việc hay không, ý kiến phản hồi của công nhân như thế nào. Kết quả trong 1 tháng đầu: công nhân không thấy sự khác biệt về nhiệt độ trong 30 phút tắt máy, môi trường vẫn đảm bảo đủ mát để làm việc. Sau khi nhận được phản hồi tích cực, Công ty A quyết định duy trì thực hành này, theo tính toán giúp giảm được trung bình khoảng 1.200 kWh/ngày;

  3. Ưu tiên chọn loại sử dụng môi chất lạnh có hệ số GWP thấp (R410a, R32, R134a,...) đối với các máy lạnh hoặc hệ thống điều hòa trung tâm được lắp đặt mới. Hàng năm, Công ty lên kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho đội bảo trì máy lạnh kiểm tra các máy lạnh và hệ thống lạnh hàng ngày để kịp thời phát hiện rò rỉ, hư hỏng; định kỳ 3 tháng 1 lần thực hiện bảo trì bảo dưỡng để giảm thiểu tối đa việc rò rỉ môi chất ra ngoài môi trường. Ngoài ra, ở các khu vực quá xa hệ thống lạnh trung tâm sẽ sử dụng hệ thống Cooling Pad (hệ thống làm mát bằng màng nước) để làm mát khu vực nhà xưởng thay vì sử dụng hệ thống lạnh;

  4. Thay thế các hóa chất sản xuất có chứa VOCs sang sử dụng các hóa chất gốc nước để giảm lượng VOCs sinh ra, gián tiếp sẽ giảm sự hình thành các KNK. Công ty đặt ra mục tiêu và thay thế từ năm 2020, đến nay các hóa chất gốc nước sử dụng có ZDHC MRSL level 3 đạt khoảng 80%. Tuy chưa thể thay thế hoàn toàn nhưng cũng đã tạo nên một sự thay đổi lớn. Công ty sẽ tiếp tục tìm kiếm và thay thế các hóa chất còn lại cho đến khi đạt 100% hóa chất gốc nước;

  5. Từ năm 2024, Công ty đã thực hiện thay thế dần các thiết bị sử dụng LPG sang các thiết bị điện và lò hơi điện để nấu ăn, ví dụ như nồi xào điện, nồi nấu canh bằng hơi từ lò hơi điện, v..v. Việc sử dụng điện sẽ giảm sự hình thành KNK, do điện có hệ số phát thải thấp hơn LPG. Đến thời điểm hiện tại, Công ty đã thay thế được 6 khu vực bếp trên tổng số 9 khu vực bếp, trong tương lai sẽ thực hiện thay thế ở các khu vực bếp còn lại;

  6. Sắp xếp cho công nhân viên đi chung xe công tác, giảm việc di chuyển nhiều xe cùng một lúc từ đó sẽ giảm được việc sử dụng xăng, dầu DO. Công ty đã phân công cho một nhân viên chịu trách nhiệm tiếp nhận phiếu đăng ký sử dụng xe và sắp xếp lịch trình di chuyển của xe một cách hợp lý, những phiếu đăng ký nào có chung tuyến đường sẽ được ghép chuyến với nhau. Từ đó sẽ tiết kiệm thời gian, quãng đường và xăng, dầu sử dụng. Kết quả, Công ty đã giảm được 700 lít DO/năm, với quãng đường 19.240km; giảm được 500 lít xăng/năm tương đương quãng đường 13.850km;

  7. Với sự phát triển không ngừng, nhà xưởng sản xuất của Công ty ngày càng mở rộng, đòi hỏi Công ty phải sử dụng ngày càng nhiều các nguồn điện, nhiên liệu để phục vụ cho sản xuất. Công ty đứng trước thách thức là phát thải KNK sẽ ngày càng tăng lên và các biện pháp mà công ty đã áp dụng trước đó sẽ giảm tính hiệu quả. Vì thế vào năm 2022, Công ty đã được phê duyệt cho mua điện năng lượng mặt trời áp mái từ Khu Công nghiệp theo mô hình OPEX với công suất 8 MWp. Vào năm 2023, Công ty tiếp tục đầu tư lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời áp mái theo mô hình CAPEX với tổng công suất 5 MWp và dự kiến trong năm 2025 sẽ hoàn thiện giai đoạn lắp đặt cuối cùng. Tính đến 2024, lượng điện năng lượng mặt trời sử dụng tại Công ty chiếm khoảng 30% tổng điện năng tiêu thụ, tương đương khoảng 1 triệu kWh. Điều này đã giúp Công ty giảm đáng kể việc sử dụng điện lưới và phát thải KNK từ điện lưới;

  8. Với tham vọng tiến tới phát thải ròng bằng 0, Công ty đã đầu tư mua chứng chỉ I-RECs cho toàn bộ lượng điện công nghiệp sử dụng. Năm 2023, Công ty đã mua 30.145 RECs tương đương 30.145 MWh điện lưới; năm 2024 đã mua 35.551 RECs tương đương 35.551 MWh. Cho năm 2025, I-RECs dự kiến sẽ được mua vào cuối năm. Việc mua I-RECs trung hoà KNK tương đương với việc 100% lượng điện sử dụng tại nhà máy là điện xanh.


Hành trình 5 năm thực hiện các giải pháp trên đã giúp Công ty A nhận về được kết quả rất tích cực, thể hiện qua 2 biểu đồ bên dưới: 

ree
ree

Những con số thống kê ở trên là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng của Công ty A trong việc giảm thiểu KNK. Giai đoạn 2020 - 2024, Công ty A đã mở rộng nhà xưởng, phát triển sản xuất, đầu tư công nghệ hiện đại, tăng số lượng công nhân viên nhưng lượng phát thải KNK vẫn giảm. Thành công này không chỉ hiện thực hóa cam kết giảm phát thải KNK theo báo cáo Sáng kiến Mục tiêu dựa trên Khoa học (SBT) của Tập đoàn mà còn củng cố mục tiêu giảm phát thải với khách hàng. Đồng thời, nâng cao vị thế hạng mục phát triển bền vững của khách hàng, tạo lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút đơn hàng so với các đối thủ cùng ngành.



Bài luận này thuộc tuyển tập Để Nói là Làm (To Walk the Talk) – nơi các nhà máy dệt may, da giày tại Việt Nam kể những câu chuyện “nhà máy thực, việc thực” về nỗ lực hàng ngày nhằm giảm thiểu tác động môi trường của hoạt động sản xuất. Người kể chuyện không phải chuyên gia, mà là những thành viên của Cộng đồng Học tập To the Finish Line (TFL) mong muốn chia sẻ kinh nghiệm, bài học, niềm vui cũng như trăn trở trong trong quá trình giải quyết các vấn đề phát triển bền vững tại nhà máy mình. Mỗi câu chuyện là một hành trình – từ nhận ra vấn đề, phân tích nguyên nhân đến hành động và kết quả. Rất có thể bạn sẽ thấy chính mình trong đó.

Qua tuyển tập này, hy vọng bạn đọc sẽ tìm thấy giá trị tham khảo để ứng dụng trong công việc, cũng như nguồn cảm hứng để cùng chung tay hành động vì rừng vàng biển bạc quê hương.

Chúng tôi cũng mong những câu chuyện này sẽ giúp khơi gợi các cuộc thảo luận với đồng nghiệp, ban giám đốc, và với nhãn hàng về những vấn đề nhức nhối còn bỏ ngỏ. Thay đổi bắt đầu từ việc lên tiếng.

Phát triển bền vững chưa bao giờ dễ dàng, nhất là trong bối cảnh năm 2025 đầy thách thức, nhưng sự tích cực và tinh thần cộng đồng sẽ mang lại sức mạnh cho mỗi người. Hãy để những câu chuyện này chạm đến bạn và cùng nhau Nói là Làm.

Related Posts

See All

Comments


bottom of page