Tái chế phế vải: Nút thắt thủ tục hải quan
- Dng van-Hanh
- Jun 5
- 8 min read
Updated: Jul 5
ĐỂ NÓI LÀ LÀM 2025 | Câu chuyện #36
Tác giả: Hương Trần, Nhà máy May
Bối cảnh
Nhà máy chúng tôi là một doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI xây dựng ở ngoài khu công nghiệp tại tỉnh Nam Định, hoạt động từ năm 2016 đến nay, với quy mô, công suất hoạt động hiện tại là khoảng 900.000 sản phẩm/năm, công suất tối đa là 1.500.000 sản phẩm/năm và với tổng số lao động hiện tại là khoảng 2.560 lao động, tối đa sẽ là 3.500 lao động.
Với công suất hoạt động hiện tại, lượng vải phế của nhà máy phát sinh cũng khá nhiều, khoảng 9 - 10 tấn vải phế mỗi tháng. Từ năm 2016 đến năm 2023, toàn bộ chất thải công nghiệp thông thường và chất thải sinh hoạt của nhà máy bàn giao cho nhà thầu đều không thể hiện rõ phương pháp xử lý cuối cùng, đặc biệt là đối với vải phế của nhà máy. Các phương pháp xử lý chất thải không đủ tính minh bạch, không đủ giá trị pháp lý, tất cả chỉ là những cam kết thông qua trao đổi giữa hai bên, mà không có văn bản chính thức nào nêu rõ phương pháp xử lý cụ thể. Lý do cho việc này là nếu đưa phương pháp xử lý vào trong hợp đồng hay các giấy tờ pháp lý thì chi phí bàn giao xử lý sẽ tăng lên nên nhà máy và nhà thầu đã không cụ thể hóa phương pháp vào trong hợp đồng để tránh các cam kết ràng buộc chính thức. Vì vậy, toàn bộ dữ liệu chạy baseline của nhà máy đều không rõ ràng và chỉ mang tính tham khảo nên kết quả xác minh đều bị đánh giá là không đủ tài liệu chứng minh. Việc xử lý chất thải cuối cùng của nhà máy cũng phụ thuộc vào nhà thầu. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ nhà thầu có thể đem chất thải của nhà máy đi một nơi khác và xử lý không đúng cách gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ con người.
Hành động và giải pháp
Thông qua chương trình đào tạo TFL năm 2023, 2024 và các diễn đàn do GIZ tổ chức, tôi nhận thấy vấn đề chất thải, vải phế của nhà máy cần được cải thiện phương pháp xử lý. Tôi đã vận dụng các kiến thức học được và kinh nghiệm của các nhà máy may mặc khác trong việc tái chế vải phế để xây dựng kế hoạch triển khai phù hợp tại nhà máy của mình.
Trong năm 2024, chúng tôi đã làm việc lại với nhà thầu, yêu cầu tất cả các chất thải của nhà máy phải được chứng minh rõ ràng và thể hiện trong các văn bản có tính ràng buộc pháp lý, để minh bạch hơn. Đồng thời, nhà máy cũng thúc đẩy nhà thầu thực hiện việc tái chế đối với các loại vải phế có khả năng tái chế. Nhà thầu và nhà máy cùng đánh giá và cam kết rõ trong hợp đồng giao kết, cụ thể các loại vải PET, PA, Cotton của nhà máy sẽ được tái chế, vải phế PU và các loại vải phế còn lại sẽ được thiêu đốt thu hồi năng lượng, kèm theo đầy đủ hồ sơ pháp lý cho việc tái chế và xử lý này.
Ban đầu, nhà thầu đồng ý ghi rõ phương pháp mà không tăng thêm chi phí với hình thức xử lý là thiêu đốt. Tuy nhiên khi nhà máy đề xuất bán các loại vải phế có thể tái chế cho nhà thầu và sẽ có hoá đơn mua bán hợp pháp, nhà thầu không đồng ý và yêu cầu nhà máy phải trả thêm chi phí bàn giao vải phế, với lý do được đưa ra là do tăng chi phí vận chuyển từ nhà thầu đến nhà tái chế, chi phí nhân công cho phân loại tinh thêm một lần nữa tại kho của nhà thầu, và chi phí cung cấp chứng từ hợp pháp về tái chế vải phế từ đơn vị tái chế. Sau khi xem xét và thảo luận, cũng như để thực hiện và theo đuổi các mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, nhà máy đã quyết định ký hợp đồng với nhà thầu để thúc đẩy tái chế vải phế, mặc dù đơn giá cho tái chế chất thải mà nhà máy phải trả cho nhà thầu sẽ cao hơn.
Sau khi ký hợp đồng, nhà máy đã tiến hành tìm hiểu cách thức phân loại theo 4 loại mà nhà thầu sẽ thu gom dựa vào tỷ lệ thành phần của từng mã vải, đào tạo phân loại vải phế cho tất cả người lao động và triển khai thực hiện phân loại. Tuy nhiên, sau khi triển khai được 2 - 3 tháng, phía nhà thầu chỉ cung cấp được biên bản bàn giao mà không cung cấp giấy tờ pháp lý chứng minh rằng vải phế của nhà máy đã được tái chế, vì vậy nhà máy bị vướng mắc pháp lý với bên Hải quan:
Theo quy định của Luật Hải quan, vải tái chế (hay còn gọi là phế liệu) nếu được tái chế thì phải xuất được hóa đơn VAT cho việc mua bán giữa 2 bên, nhưng thực tế giữa nhà máy và nhà thầu không thể xuất được hoá đơn này vì nhà máy đang phải trả chi phí cho việc tái chế. Trong khi đó, nhà thầu thu gom và xử lý chất thải cũng không thể cung cấp hoá đơn đã bán cho đơn vị tái chế và các giấy tờ đủ pháp lý để chứng nhận hay chứng minh rằng vải phế của nhà máy đã được tái chế đúng quy định. Nếu không thể cung cấp các giấy tờ này cho bên Hải quan, nhà máy sẽ bị xử phạt theo Luật Hải quan về mua bán phế liệu nên chúng tôi phải dừng việc tái chế vải phế và quay về bàn giao vải phế của nhà máy theo phương pháp xử lý cũ - thiêu đốt thu hồi năng lượng tại nhà máy xi măng.
Trong quá trình đó, nhà máy chúng tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm các đơn vị khác có thể thu mua vải phế và toàn bộ chất thải khác từ nhà máy, nhưng các đơn vị tái chế vải phế chỉ thu gom vải có khả năng tái chế mà không thu gom các loại vải khác, trong khi các nhà thu gom khác đều đưa giá cả cao hơn rất nhiều vì khoảng cách vận chuyển xa hơn và yêu cầu tần suất thu gom phải là một tháng một lần - điều này nhà máy không thể đáp ứng, vì kho lưu trữ chất thải của nhà máy có diện tích thiết kế nhỏ, chỉ đảm bảo lưu kho từ 2-3 ngày. Nhà máy cũng đã tìm hiểu và thảo luận về kế hoạch mở rộng kho lưu trữ chất thải. Tuy nhiên, thủ tục và kinh phí cho việc xây dựng kho lưu trữ mới cần giải quyết rất nhiều, bao gồm: xin điều chỉnh mặt bằng xây dựng, xin lại giấy phép xây dựng, làm lại giấy phép môi trường, xin thẩm duyệt phòng cháy chữa cháy, vì vậy chúng tôi chưa thể áp dụng phương án này. Hiện tại, chúng tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm các đơn vị thu gom và tái chế phù hợp khác, đồng thời tiếp tục thúc đẩy nhà thầu hiện tại cùng tìm ra phương hướng để có thể minh bạch và cung cấp đủ hồ sơ giấy tờ pháp lý cho vải phế của nhà máy khi được đem đi tái chế.
Kết quả
Tuy chưa đạt được kết quả cụ thể về thúc đẩy tái chế vải phế, nhưng đây cũng là bước đầu để nhà máy có cơ sở để thực hiện các nghiên cứu tìm ra cách thức phù hợp cho nhà máy nhằm triển khai các hoạt động tương tự sau này. Đồng thời, quá trình này đã góp phần nâng cao mức độ quan tâm của Ban Giám đốc nhà máy về phát triển bền vững, tái chế vải phế và giảm phát thải CO2.
Đối với các loại chất thải khác, nhà máy đã đàm phán thành công với nhà thầu trong việc minh bạch hoá phương pháp xử lý chất thải, thể hiện rõ trong các giấy tờ pháp lý và hợp đồng giao kết giữa hai bên, thúc đẩy thành công việc chuyển đổi phương pháp xử lý gỗ từ thiêu đốt sang tái chế và tái sử dụng.
Bài học rút ra của nhà máy từ vấn đề của mình: đối với các nhà máy nhập khẩu vải, cần phối hợp chặt chẽ với bộ phận xuất nhập khẩu để tìm hiểu rõ hơn về các thủ tục Hải quan cho cả vải phế tái chế, tránh việc bị bỏ qua các Luật này.
Đối với các nhà máy mới xây dựng, cần tính toán diện tích kho lưu trữ chất thải đủ lớn để đảm bảo khả năng lưu trữ chất thải của nhà máy với quy mô, công suất sản xuất tối đa. Hơn nữa, cần phải đàm phán về phương pháp xử lý và thể hiện rõ mục tiêu tái chế các loại vải phế và các chất thải khác trên hợp đồng với bên nhà thầu thu gom ngay từ đầu để đạt được các mục tiêu ưu tiên của nhà máy, tránh những khó khăn về sau khó giải quyết.
Cuối cùng, cần xây dựng kế hoạch có lộ trình và đánh giá tìm hiểu kỹ về các đơn vị tái chế và thu gom, cũng như hệ sinh thái các nhà thu gom, đảm bảo chi phí chuyển giao chất thải hợp lý và hiệu quả.
Bài luận này thuộc tuyển tập Để Nói là Làm (To Walk the Talk) – nơi các nhà máy dệt may, da giày tại Việt Nam kể những câu chuyện “nhà máy thực, việc thực” về nỗ lực hàng ngày nhằm giảm thiểu tác động môi trường của hoạt động sản xuất. Người kể chuyện không phải chuyên gia, mà là những thành viên của Cộng đồng Học tập To the Finish Line (TFL) mong muốn chia sẻ kinh nghiệm, bài học, niềm vui cũng như trăn trở trong trong quá trình giải quyết các vấn đề phát triển bền vững tại nhà máy mình. Mỗi câu chuyện là một hành trình – từ nhận ra vấn đề, phân tích nguyên nhân đến hành động và kết quả. Rất có thể bạn sẽ thấy chính mình trong đó.
Qua tuyển tập này, hy vọng bạn đọc sẽ tìm thấy giá trị tham khảo để ứng dụng trong công việc, cũng như nguồn cảm hứng để cùng chung tay hành động vì rừng vàng biển bạc quê hương.
Chúng tôi cũng mong những câu chuyện này sẽ giúp khơi gợi các cuộc thảo luận với đồng nghiệp, ban giám đốc, và với nhãn hàng về những vấn đề nhức nhối còn bỏ ngỏ. Thay đổi bắt đầu từ việc lên tiếng.
Phát triển bền vững chưa bao giờ dễ dàng, nhất là trong bối cảnh năm 2025 đầy thách thức, nhưng sự tích cực và tinh thần cộng đồng sẽ mang lại sức mạnh cho mỗi người. Hãy để những câu chuyện này chạm đến bạn và cùng nhau Nói là Làm.
Comments